|

TV

Wednesday, April 15, 2015

NHẬN DIỆN CHO RÕ CHÂN TƯỚNG CỦA CHỦ NGHĨA BÀNH TRƯỚNG ĐẠI HÁN




VietPress USA (15-4-2015): Chúng tôi vừa nhận được bài dưới đây của Tác giả TƯƠNG LAI do một bạn đọc chuyển đến. Nhận xét thấy bài nầy rất hay nên xin phép Tác giả để phổ biến lên đây cho bà con khắp nơi cùng đọc.

VietPress USA.

NHẬN DIỆN CHO RÕ CHÂN TƯỚNG 
CỦA CHỦ NGHĨA BÀNH TRƯỚNG ĐẠI HÁN

Tương Lai

Việt Nam – Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông”, câu hát ấy có sức khơi gợi mãnh liệt tình cảm láng giếng gắn bó giữa nhân dân hai nước Việt-Trung bao đời sống cạnh nhau, “bên ni biên giới là mình, bên kia biên giới cũng tình anh em”. Còn gì hạnh phúc hơn thế!

Có ước ao nào da diết hơn với những người dân lương thiện Việt -Trung, lam lũ cần cù, từng gần gũi, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trải qua bao nhiêu thế hệ trên dọc suốt tuyến biên giới hơn 1400 km với bao mưa nguồn thác lũ của trùng trùng điệp điệp sông suối núi non, ở vùng Đông Bắc hình vòng cung lồi ra phía biển bởi những vùng đồi rộng và một mạng lưới sông suối dày đặc tạo thành các thung lũng rậm rạp, rồi các cánh rừng thưa nối với miền Tây Bắc của những dãy núi cao ngất và sắc nhọn bắt đầu từ dãy Hoàng Liên Sơn, những dải cao nguyên rộng nằm giữa các vực sâu kẹp con sông Đà kỳ vĩ giữa các vách núi dựng đứng.
Các cao nguyên biên giới thật ra đều nằm ở rìa khối cao nguyên đồ sộ nam Trung Hoa từ Vân Nam đổ xuống theo hướng tây sang đông, với các cao nguyên Bắc Hà, Quản Bạ, và cao nhất là Đồng Văn với 1600m so với mặt biển. Rất nhiều cư dân các bản làng dọc tuyến biên giới có một quan hệ mật thiết với nhau, đi lại thăm viếng, chia bùi sẻ ngọt, không chỉ hiểu tiếng nói của nhau mà có một số gia đình còn có mối liên hệ họ hàng. Bà con các dân tộc bên kia biên giới đã từng cưu mang giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng Việt Nam bị thực dân Pháp khủng bố, và máu của các chiến sĩ Việt Nam cũng đã đổ xuống trong việc cứu giúp quân giải phóng Trung Quốc mà chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn tại ba huyện Ung Châu, Long Châu và Khâm Châu năm 1949 là một ví dụ.

Ấy thế mà không có nơi nào bằng ở đây, nơi cắm cột mốc biên giới, hai tiếng “Tổ Quốc” lại được cụ thể hoá và làm cho trái tim Việt đập rộn ràng đến thế. Từ mõm Lũng Cú, ngồi trên núi cao mùa thu, nhìn ra sóng núi tứ bề, cứ thấy nhớ biển, nghĩ về bờ biển kéo dài tít tắp cho đến tận Mũi Năm Căn, nơi ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm mà càng thêm nhớ thêm thương quê hương đất nước mình non sông liền một dải. Biết bao máu và mồ hôi của các hế hệ Việt Nam suốt mấy nghìn năm lịch sử đã thấm đẫm trên dải non sông ông cha ta bao đời vun đắp, gìn giữ được gọi là tổ quốc đó. Chẳng vậy mà sách Đại Việt Sử ký toàn thư, kỷ nhà Lê chép rành rọt lời vua Lê Thánh Tôn “kẻ nào để mất một thước núi, một tấc sông của vua Thái Tổ để lại phải bị tội tru di”.

Núi liền núi, sông liền sông, đó là một thực tế! Nhưng, liệu đó có phải là một định mệnh nghiệt ngã hay không trong cái vị thế địa-chính trị oái oăm suốt mấy nghìn năm lịch sử thì lại phải soi vào bụng dạ của các triều đại cầm quyền phương Bắc từ Tần, Hán, Tuỳ, Đường đến Tống, Nguyên, Minh, Thanh rồi không kém nham hiểm tàn ác thời Mao Đặng cho đến Tập Cận Bình của “giấc mơ Trung Hoa” hôm nay.

Quả thật đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi mà vì lòng người chặn núi ngăn sông. Bởi lẽ, sông sâu còn có thể dò, lòng bọn người kia nham hiểm thì khó mà đo cho cùng. Khi mà cái lưỡi tham lam và nhơ bẩn của chúng còn thè ra để chực liếm cả biển Đông, thì chuyện nuốt một phần Thác Bản Giốc, nhai cả quãng đường sắt từ Đồng Đăng đến đường biên giới cũ, hay ăn bẩn bằng việc nắn dòng chảy tại cửa sông Bắc Luân, bãi Tục Lãm, bãi Dâu Gót hoặc khu vực Hoành Mô ở Quảng Ninh và nhiều nơi khác nữa thì có sá gì!

Cái nguy hiểm gấp triệu lần là ý đồ khuất phục một dân tộc mà suốt mấy nghìn năm lịch sử chúng đã không làm được thì nay chúng đang quyết làm, và xem ra nhờ ngón võ Tầu bí truyền được hiện đại hóa với chiêu thức “cùng chung ý thức hệ XHCN” đang được lập trình có bài bản thì hình như đang phát huy tác dụng đối với những đầu óc lú lẫn và những người nhẹ dạ cả tin thích ăn xíu mại và vit quay Bắc Kinh!

Chính vì thế, lúc này hơn bất cứ lúc nào khác, khi mà ông Nguyễn Phú Trọng vừa kết thúc muốn chuyến đi vội vã theo một kịch bản gấp gáp nhưng rất trọng thể một cách xảo quyệt và đen tối, cần phải nhận diện cho rõ chân tướng của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.

Cảnh giác với Trung Quốc, đó là bài học ông cha dạy các thế hệ Việt Nam phải nhớ nằm lòng. Không chỉ dạy bằng sử sách, còn bằng truyền thuyết lưu giữ tự bao đời, như truyền thuyết về 99 ngọn đồi và một ngọn bị vạt mất ngọn thuộc vùng Nghĩa Lĩnh, nơi tế trời đất thuộc địa phận thôn Cổ tích ở vùng đồi vùng trung du Phú Thọ. Đó là hình ảnh của 100 con voi. Trong đó 99 voi có nghĩa phủ phục chầu núi Tổ, một con bất nghĩa, tách đàn quay đầu về hướng bắc, đã bi chém cụt đầu. Quả đồi vì vậy có vết xẻ thành khe! Rồi những lốt chân ngựa của Thánh Gióng nay thành những ao chuôm giữa cánh đồng ở vùng Quế Võ, Bắc Ninh đi trên đường cái trải nhựa hôm nay còn nhìn thấy. Hoặc là giếng Trọng Thủy ở Cổ Loa, Đông Anh, chỉ cách Hà Nội có 17km v.v…Người xưa đã tạc thành hình thể của núi sông để răn truyền con cháu đừng quên nỗi nhục mất nước và những vết nhơ hại nước.

Đấy là mới chỉ gợi lên vài biểu tượng được thăng hoa trong huyền thoại, truyền thuyết ở vùng trung du và miền núi. Nhưng đâu chỉ có thế.
Một quốc gia bán đảo có bờ biển dài đến 3260km thì biển có ý nghĩa sống còn của đất nước. Ngẫm sâu vào tự tình dân tộc sẽ thấy rằng, trong cảm thức người Việt chúng ta, núi và biển có sức lay động thật mãnh liệt. Biểu tượng con Rồng, cháu Tiên từ huyền thoại Lạc Long - Âu Cơ ghi đậm không chỉ là hình tượng thăng hoa của nguồn cội, mà ngẫm cho kỹ, thì ra đây từng là sự lựa chọn thế tồn tại của ông cha ta, hướng núi hay hướng biển? “Hình khe thế núi gần xa, đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”, dựa vào hình thể đất nước thì chọn hướng nào để phát triển?

Phải chăng truyền thuyết 50 người con theo cha lên núi và 50 người theo mẹ xuống biển là một lựa chọn của sự cân bằng tâm thế hướng núihướng biển. Mà hướng biển xem ra có phần ưu trội vì trong mô hình mẫu hệ thì “mẹ Âu Cơ” chắc không phải là yếu thế hơn, nếu không là ngược lại. Chỉ có điều, ân huệ của biển rất nhiều song không dễ thụ hưởng, còn tai họa vì bão lụt do biển gây ra thì lại bạo liệt tàn khốc. Vì thế, dựa vào địa hình, “yếu tố trội” và là yếu tố bảo thủ nhất, biến đổi chậm nhất theo thời gian, cùng với các yếu tố tự nhiên khác như khí hậu, sông ngòi và lớp phủ sinh vật, thì chọn “hướng núi”, dựa vào núi để mà mở nước phải chăng là một sự lựa chọn trong thế chẳng đặng đừng vào buổi ấy. Mặc dù vậy, trong sâu thẳm tâm thức Việt, cả hai hướng ấy quyện vào nhau. Phải chăngvì thế mà những lời “nguyện nước thề non” của thi sĩ Tản Đà, có sức khơi gợi mãnh liệt tâm thức Việt :
                                  Non cao đã biết hay chưa,


                                   Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”
Mà đâu chỉ nỗi khắc khoải của một tài thơ nằm vắt ngang thế kỷ XIX và thế kỷ XX, hơn nửa thế kỷ sau, Trịnh Công Sơn cũng nói về sự gắn quyện ấy:
                                                Trong khi ta về lại nhớ ta đi
                                              Đi lên non cao, đi về biển rộng”

Rõ ràng biển là một phần máu thịt của Tổ Quốc, vùng biển đảo mà tổ tiên đã từng xác lập chủ quyền là lãnh thổ thiêng liêng mà mỗi người Việt Nam có nghĩa vụ giữ gìn như ông cha đã từng làm, mà làm bằng hành động chứ không chỉ bằng loa tuyên truyền.

 “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” chép : năm 1161, “Lý Anh Tông sai đô tướng Tô Hiến Thành và phó tướng Đỗ An Di đem hai vạn quân đi tuần tiễu ở các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên cõi xa”. Năm 1171, vua “đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết dân tình đau khổ và đường đi xa gần thế nào”. Năm 1172, “mùa xuân tháng 2, vua lại đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về”. Liệu đây có phải là vị vua đầu tiên vẽ bản đồ đất nước? Có lẽ rõ nhất là tấm bản đồ hành chính đầu tiên của nước ta, bản đồ Hồng Đức được thực hiện dưới thời vua Lê Thánh Tông và rồi sau đó, Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ được thực hiện dưới thời Nhà Nguyễn năm 1838 đã dựa vào bản đồ Hồng Đức mà thể hiện hình hài đất nước theo phương vị nằm ngang, nhằm nhấn mạnh thế phong thủy “dựa núi, nhìn biển” với những quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ rất gần đất liền.

Phải làm như vậy vì dân tộc này đã phải tồn tại và phát triển bên cạnh một thế lực bành trướng phương Bắc chưa bao giờ nguôi tham vọng khuất phục đất nước nhỏ bé ở phương nam cứ như một khúc xương ngáng ngang cổ họng, không cho chúng nuốt trôi vùng đất có vị thế chiến lược đặc thù nằm trên ngả tư giao thương quốc tế. Phải rèn luyện bản lĩnh và khí phách “có cứng mới đứng được đầu gió”. Sóng gió của Thái Bình Dương tràn qua Biển Đông dập dồn những cơn bão miền nhiệt đới gió mùa hung dữ thường niên tàn phá. Và cùng với sự tàn phá ấy, sự tàn phá của người lại còn dai dẳng triền miên từ thời dựng nước cho đến hôm nay mới dữ dằn, khốc hại chẳng kém.

Cái thế núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông khiến cho muốn sống hoà thuận hữu nghị với nhân dân của nước láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau, thì lại phải có đủ thế và lực để đánh trả những mưu toan xâm lược vốn thường trực trong não trạng của giới cầm quyền qua mọi triều đại nước Tàu. Không chỉ đánh trả những cánh quân xâm lược đến từ Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây kết hợp với những mùi vu hồi của chiến thuyền theo hướng biển Đông tiến vào, mà khó khăn hơn, quyết liệt hơn là chống lại âm mưu và thủ đoạn Hán hoá để đồng hoá.

Cũng Đại Việt Sử ký toàn thư, cạnh những trang ghi lại những chuyến vi hành trên biển “để giữ yên cõi xa”, “đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc” còn ghi tỉ mỉ những chỉ dụ của vua ta về chăm sóc, gìn giữ “quốc hồn, quốc tuý”, phong tục tập quán. Không chỉ xác định văn hoá như một tiêu chí quan trọng nhất của một quốc gia độc lập trong bài cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi sau chiến thắng lừng lẫy quét sạch quân Minh, mà ngay một vị vua của thời suy vong như Trần Dụ Tông vẫn kiên quyết khẳng định "Miếu hiệu tuy đồng, Đức bất đồng".

Đây là một khẳng định thể hiện một triết lý để tồn tại bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ tự cho mình nước đứng giữa trung tâm, chung quanh chỉ là man di, biểu tỏ một bản lĩnh, một khí phách "Đồng ở cách, bất đồng ở cốt, giống nhau ở phần biểu kiến, hiện tượng - kết quả của "Trung Quốc hóa", hội nhập văn hóa với Trung Quốc trên bề mặt – khác nhau ở phần tiềm ẩn, bản chất – kết qủa "Dân tộc hóa", "giải Hán hóa" dưới bề sâu” như lời bình xác đáng của giáo sư Trần Quốc Vượng, nhà sử học tài ba của thời hiện đại hiẻu quá rõ bụng dạ bọn bành trướng “cùng chung ý thức hệ XHCN”!

Hiểu được điều đó, kẻ thù tìm mọi cách để phá bằng hết cái sức "tiềm ẩn", cái "giải Hán hóa" dưới bề sâu" ấy. Sắc chỉ ngày 21.8.1406! của Minh Thành tổ gửi tướng viễn chinh Chu Năng là minh chứng sống động cho chính sách nham hiểm đó :  “…Một khi binh lính vào nước Nam…hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến những loại ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ nhỏ, loaị sách có câu “thượng đại nhân, khưu ất kỷ” …một mảnh, một chữ đều phải đốt hết…Khắp trong nước, phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều gìn giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá huỷ tất cả, một chữ chớ để còn…” .

Những hậu duệ của Minh Thành Tổ từng bỏ xác trên đất nước ta trong cuộc xâm lược do triều đình nhà Thanh phát động như Sầm Nghi Đống, Hứa Thế Hanh thế kỷ XVIII, và rồi tiếp đó là hậu duệ của những tên bại tướng này vẫn tiếp tục một con đường nhơ bẩn và tàn ác của cha anh chúng, thậm chí còn nham hiểm tàn ác hơn vì lần này chúng được trang bị thêm bộ áo giáp “cùng chung ý thức hệ XHCN” vừa nói!

Thì chẳng phải thế sao? Chẳng phải Hứa Thế Hữu, bí thư và là Tư lệnh quân khu Quảng ChâuTrung Quốc, ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng chỉ huy quân Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 chính là hậu duệ đời thứ tư của bại tướng Hứa Thế Hanh [bị giết chết trong trận Ngọc Hồi thế kỷ XVIII từng được vua Càn Long nhà Thanh phong là tam đẳng Tráng Liệt Bá, đưa vào thờ trong Chiêu Trung Từ] đã tiếp tục xuất sắc chính sách của cha ông hắn là giết sạch, phá sạch những người “cùng chung ý thức hệ” đó sao?

Và rồi với cuộc chiến Gạc Ma trên Biển Đông, chúng cũng vẫn nhất quán một chính sách như vậy. Tờ báo Hoàn Cầu của đảng cộng sản Trung Quốc không úp mở mà nói thẳng những toan tính của chúng. Năm 2013, trang quân sự của Sina (Trung Quốc) thực hiện bài phỏng vấn Từ Hữu Pháp – Chính ủy tàu 531 – người được báo chí Trung Quốc gọi là “nhân vật chính” của sự kiện Gạc Ma, cho biết rằng với mỗi tốp lính Trung Quốc chuẩn bị đổ bộ lên Đá Gạc Ma, Từ Hữu Pháp đều đưa ra chỉ thị: “Một khi đã nổ súng thì phải đánh thật quyết liệt, giết chết toàn bộ, không để lại một mạng nào”. Từ Hữu Pháp nói “đó là nguyên văn những gì tôi truyền đạt cho binh lính”. 

Hãy đối chiếu giọng lưỡi của tên “chính uỷ” này với lời lẽ trong Sắc chỉ của Minh Thành Tổ nói trên rồi tự vấn lương tâm thử xem khi mùi mẫn và thiết tha nói lên mấy chữ “vừa là đồng chí vừa là anh em” liệu có gì phải xốn xang không? 

Xem ra trong cái vị thế địa-chính trị oái oăm trong thế "trứng chọi với đá", các triều đại phong kiến Trung Hoa từ Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh luôn cậy thế "thiên triều" để bức bách các nước lân bang phải thần phục và phải "triều cống" những lời lẽ nói trước “thanh thiên bạch nhật” kiểu này e là rất hiếm. Đấy là còn chưa nói, trong suốt chiều dài lịch sử, chưa một vị vua nào của nước ta chịu đến "triều cống" theo sự bức bách của "thiên triều", mà để khéo léo khước từ bằng sự nhún nhường trong ngôn từ ròi tìm cách từ chối, hoặc mạo hiểm hơn thì cử "vua giả" thay mình như thời vua Quang Trung!Nhưng, hãy nhớ cho, người chỉ đạo kế sách đó chính là người chỉ huy đánh tan 29 vạn quân xâm lược phương Bắc, người từng nói với Ngô Thời Nhiệm: "nay ta đến đây tự đốc việc quân, đánh hay giữ đã có kế cả rồi...nhưng nước Thanh lớn hơn nước ta đến mười lần, bị thua chắc phải tìm cách rửa hận. Nếu cứ để binh lửa liên miên, thực không phải là phúc của nhân dân, lòng ta sao nỡ. Vì vậy, sau khi thắng trận phải khéo dùng từ lệnh thì mới dập tắt được lửa binh". "Gò Đống Đa" với bài văn tế những tên xâm lược xấu số là một biểu hiện sống động của "từ lệnh" đó: " Nay ta cho thu nhặt xương cốt chôn vùi. Bảo lập đàn bên sông cúng tế. Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc. Xuất của kho đắp điếm đống xương khô. Hồn các ngươi đừng vất vưởng dưới trời Nam. Hãy lên đường quay về nơi hương chỉ ". 

Chỉ nửa năm sau "sự kiện Đống Đa", Quang Trung đã lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh! Chẳng biết hồn của những lính Tàu tử trận chôn ở Gò Đống Đa đã “lên đường quay về nơi hương chỉ "chưa, nhưng theo ngài thượng tướng Lưu Á Châu, Chính uỷ Học viện Quốc phòng Trung Quốc thì hình như họ đã được truy phong là “liệt sĩ”. 

Hãy nghe ông ta nói về những tên lính Trung Quốc bị chết tại Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 : “Khi đó, có người nói: chúng ta đánh nhau với người Việt Nam, hiện nay, những người hy sinh là liệt sĩ, sau khi quan hệ hai nước trở lại tốt đẹp, họ sẽ là gì? Tôi trả lời: "Vẫn là liệt sĩ!". Vì sao? Chúng ta phải nhìn nhận cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của cuộc chiến này nằm bên ngoài cuộc chiến. Cuộc chiến này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ... Về chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh. Vì sao? 

Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, chương trình cải cách mở cửa của Trung Quốc đã được ông vạch sẵn, muốn thực hiện chương trình này phải xác lập quyền lực tuyệt đối trong nội bộ Đảng. Phải đánh một trận... Muốn cải cách phải có quyền lực. Biện pháp xác định quyền lực nhanh nhất là gây chiến tranh... Quân Giải phóng ào ạt vượt qua biên giới vào ngày 17/2. Thứ hai là người Mỹ, ý nghĩa của việc này cũng rất lớn. 

Để hoàn chỉnh việc nhận diện về não trạng của một thượng tướng chính uỷ, một trí thức Trung Quốc [Lưu Á Châu từng được mời thỉnh giảng tại đại học Stanford, Hoa Kỳ] xin đọc tiếp những câu sau của y : “Liên Xô cũng tan rã. 10 năm trước đó, Đặng Tiểu Bình đã nhận ra vấn đề này, dùng chiến tranh để vạch rõ ranh giới với các nước xã hội chủ nghĩa. Đặng Tiểu Bình, thật là một kỳ tài! Vừa rồi, tôi nói gây ra cuộc chiến tranh này vì người Mỹ, chính là trả hận cho người Mỹ. Có bằng chứng không? Có đấy. Ngày hôm trước rời Nhà Trắng thì ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đánh Việt Nam. Vì sao có thể giúp Mỹ hả giận? Bởi vì, người Mỹ vừa tháo chạy nhục nhã khỏi Việt Nam. Chúng ta sao lại giúp người Mỹ hả giận? 

Thực ra không phải vì Mỹ, mà là vì chúng ta, vì cải cách mở cửa. Trung Quốc không thể cải cách mở cửa mà không có viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Nhờ cuộc chiến này, Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và cả viện trợ quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc... Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này.

Hiện tượng Lưu Á Châu không có gì khó hiểu, nó chỉ cho chúng ta thấy rõ hơn chân tướng của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán dưới những mặt nạ khác nhau mà thôi. Xin hãy đọc tiếp những dòng sau đây : 

“Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông nam châu Á”….*. Đó là lời của Chu Ân Lai, được ghi trong sách trắng về "SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT -TRUNG" xuất bản tháng 10 năm 1979. Mao Trạch Đông thì tuyên bố thẳng thừng, không úp mở : Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông nam châu Á”.

Mao so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, Mao cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào. Trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965. Mao tuyên bố :Chúng ta phải giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông nam châÁ rất giàu,ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”. 

Kế thừa tư tưởng và đường lối của Mao, Tập Cận Bình cũng nói rõ "Chính sự yếu kém của quốc gia trong quá khứ đã giúp những kẻ ngoại xâm phá vỡ phòng thủ biên giới trên bộ và trên biển của Trung Quốc hàng trăm lần, đẩy đất nước Trung Quốc đến tận cùng của tai họa" .Vì vậy người dân Trung Quốc "không được quên quá khứ nhục nhã đó và phải xây dựng biên giới vững chắc"  [Bangkok Post, 30-6-2014].

Phải chăng họ Tập muốn học đòi văn hào Lỗ Tấn nói về “quốc dân tính” để thúc giục người Trung Quốc hâm lại và đẩy cao lên chủ nghĩa dân tộc theo tình thần bành trướng Đại Hán? Giáo sư Cao Huy Thuần đã kịp thời vạch trần chân tướng của mưu toan ấy: “Khi Lỗ Tấn viết A Q, ông trào lộng con người Trung Quốc, xã hội Trung Quốc. Trí thức thời ấy không phải là không biết nhục trước đế quốc, nhưng họ nhắm vào cái cổ hủ, cái lụn bại của văn hóa Trung Quốc để đả kích, hòng canh tân, đưa Trung Quốc vào hiện đại. Hậu Thiên An Môn đi ngược lại chiều hướng ấy, lái dân tộc chủ nghĩa qua tham vọng bá quyền ở bên ngoài. Một bên nhắm vào bên trong để định nghĩa cái "ta", của Trung Quốc. Một bên nhắm vào bên ngoài, biến cái "ta" của Trung Quốc thành đe dọa thường xuyên. Không phải súng ống tàu bè làm Trung Quốc đáng sợ. Đáng sợ là cái thứ văn hóa chiến tranh ấy”. 

Cao Huy Thuần nói trúng tim đen của thứ văn hoá chiến tranh ấy : “ngày nay, trong văn hóa Anh Mỹ, an ninh tinh thần ấy còn nằm ở nơi một ông Thượng đế khác, ông Thượng đế Dân chủ, và ông ấy nằm trong lòng dân. Trung Quốc không có Thượng đế, không có cả ông Trời mà ngay cả Khổng Tử cũng kính sợ. Chỉ còn lòng cuồng nhiệt của dân chúng để kích động, để tìm hỗ trợ an ninh. Nhưng ngay cả trong an ninh tinh thần ấy, ông cũng bất an, vì ông cứ phải nghe hoài câu nói của tổ tiên ông vọng lại từ Thiên An Môn: "dân như nước, nước chở thuyền nhưng cũng làm lật thuyền".[1] Bất an trong an ninh tinh thần, ông lại càng nổ đại bác quốc sỉ vào Biển Đông của chúng tôi. 

Ông muốn gì? Muốn làm cha thiên hạ. Muốn thuộc địa hóa Việt Nam. Muốn đầy tớ hóa dân ta. Thật là buồn cười khi ta gọi ông là đồng chí. Đồng chí với chủ nghĩa dân tộc của ông ấy? Đồng chí để cùng Hán hóa nước ta?

Hệ luỵ trực tiếp của thứ văn hoá đó, thứ “đồng chí” đó là gì? Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới 80% dân mạng Trung Quốc (tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học) tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông. Bộ máy điều hành cái thứ văn hoá chiến tranh ấy thực thi một quyết sách xoá đi những tình cảm tốt đẹp của nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam láng giếng từng  anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, mong muốn xây đắp tình hữu nghị với Trung Quốc để tiện bề đẩy tới chủ nghĩa bành trướng Đại Hán thời Tập Cân Bình. 

Vở diễn vừa rồi của họ Tập với 21 phát đại bác làm choáng tai ông Nguyễn Phú Trọng tại lễ đón tiếp có cách cháu thiếu nhi vẫy hoa chào mừng và những cái ôm hôn thắm thiết của những người bạn “vừa là đồng chí vừa là anh em” là một biến thái khác tráo trở hơn của cùng một thứ văn hoá “đồng chí” ấy mà thôi.

Đấy mới là điều bức xúc cần nói với tuổi trẻ hôm nay chứ không phải là những lời mùi mẫm mụ mị mà vai diễn đã cố gắng hết sức mình để diễn thành công theo sự dẫn dắt của một kịch bản soạn sẵn! Chao ôi, tôi chỉ muốn mạo muội thưa với các nhà ngoại giao Việt Nam ta, với các vị giữ trọng trách thường hay công du nước ngoài làm ơn nhớ rằng “nghĩ mình phương diện quốc gia, bên trên trông xuống người ta trông vào” nên đọc lại để học láy một phần khí phách của sứ thần Giang Văn Minh thế kỷ XVII, dám coi khinh cái chết để đáp trả câu đối xấc xược do vua Sùng Trinh nhà Minh đưa ra nhằm nhục mạ đất nước mình với một lời cảnh cáo đanh thép “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” [sông Bạch Đằng từ xưa máu vẫn còn loang đỏ].

Và kính thưa ông Nguyễn Phú Trọng đây mới là điều ông cần phải thiết tha và xúc động đến rơi lệ nói với thanh niên Việt Nam và thanh niên Trung Quốc đấy ạ.

Tương Lai.

oOo

VietPress USA nhận đăng cái bài viết, bình luận, quan điểm, phóng sự, Thơ, Văn, Tuỳ bút, Truyện ngắn của đọc giả xa gần hoàn toàn vô tư, miễn phí nếu không vi phảm thuần phong mỹ tục, không liên quan đến khủng bố và các loại tội phạm.
Xin vui lòng gởi bài viết, tác phẩm và hình ảnh về cho chúng tôi tại Email: vietpressusa@gmail.com.